Miếu Bà Nam Hải
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
THANH MINH CỔ MIẾU (CHÙA ÔNG) Ở ĐÂU
Thanh Minh cổ miếu hay còn gọi Chùa Ông nằm tọa lạc tại đường Nguyễn Huệ, Khóm 1, Phường 1, Thị Xã Vĩnh Châu, Tỉnh Sóc Trăng.
THANH MINH CỔ MIẾU (CHÙA ÔNG) CÓ GÌ
Khi bước vào sân của Thanh Minh Cổ Miếu du khách sẽ thấy được cổng tam quan được phụ dựng xây mới theo phong cách của các cổng tam quan ở Đài Loan, với màu trằng của đá với 5 tầng mái được chạm trổ đá công phu với lưỡng long tranh châu, long phụng, và bốn chữ “Thanh Minh Cổ Miếu”bằng chứ Hán màu vàng nhìn rất uy nghiêm và bốn câu đối trên bốn cột của cổng và cặp tượng sư tử đá đặc trưng của người Hoa.
Thanh Minh Cổ Miếu có diện tích ngang 25m x dài 58m. Riêng phần nội thất và hai phòng Đông lang, Tây lang có chiều ngang 25m x dài 17m. Thanh Minh Cổ Miếu được xây dựng theo hình chữ “Phú”, tượng trưng cho ước vọng sung túc, phú quý. Cũng như các đình, chùa, miếu khác của người Hoa tại vùng đất Nam Bộ, Thanh Minh Cổ Miếu có mái là lớp ngói cổ màu xanh lưu ly, bên trên được trang trí bằng gốm tráng men màu các tượng “Lưỡng long tranh châu”, “Long phụng hoà minh”, tượng trưng cho âm dương hoà hợp, sung túc, no đủ.
Trong sân cổ miếu rộng rãi. Mặt tiền chính điện hướng về hướng Bắc, hai bên hữu tả cửa chính là hai bức bích hoạ vẽ tranh phong thủy xưa với đôi liễn “Phong điều vũ thuận dân an lạc” – “Hải án hà thanh thế thái bình”, ngụ ý chúc bà con bá tánh an hưởng thanh bình và phồn vinh. Và hình phù điêu Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ”và với nhiều hình ảnh tứ quý như “Mai Lan Cúc Trúc”, “Xuân Hạ Thu Đông”, hình ảnh “Bác Tiên, Trúc Lâm Thất Hiền”.
Trên bộ khung cửa chính, có bức biển đại tự “Thanh Minh Cổ Miếu” sơn son thếp vàng rực rỡ (được hoàn thành vào năm 1923), bên dưới là đôi lân làm bằng gốm tráng men, thường được gọi là “Nhị lân quản ngõ”. Tiếp đến là đôi cánh cửa gỗ được làm từ danh mộc, hoạ hình tướng Uất Trì Cung, Tần Thúc Bảo làm hai vị thần hộ môn, trông rất uy nghi, lẫm liệt.
Từ tiền điện đến trước chánh điện có 7 đôi cột gỗ tròn bằng danh mộc, một đôi cột tròn bằng xi-măng đắp nổi hình rồng. Trên đầu các đôi cột này đều gắn những bức hoành phi, câu đối có niên đại từ thế kỷ XIX.
Chánh điện là nơi tập trung nhiều tác phẩm nghệ thuật độc đáo như: bao lam, hoành phi, câu đối, tượng điêu khắc gỗ được chạm trổ tinh vi, vàng son rực rỡ. Sát vách trong của chánh điện là ba khánh thờ. Khánh thờ ở giữa là Quyền Thiên Thượng Đế với dáng vẻ uy nghi, hai gian tả hữu thờ Ông Bổn và Tam Sơn Quốc Vương được bày trí trang trọng không kém… Trên vách chánh điện là các bích hoạ về tích truyện Trung Quốc xưa như: Tam quốc chí, Phong thần, Tiên ông hóa sơn, Lý Bạch say rượu…
Khoảng trống hai bên trung điện có “Thiên tĩnh” để lấy ánh sáng và tạo sự thoáng đạt cho cổ miếu. Trong đợt trùng tu vào năm 1992, Thanh Minh Cổ Miếu có xây mới bàn thờ bằng đá mài và đắp nổi hai bức tranh lớn bằng xi-măng “Tả thanh long”, “Hữu bạch hổ”.
Trên các cây đòn dông, cây xiên đỡ mái đều là những tác phẩm điêu khắc được chạm trổ kỳ công,hình vẽ những tuyệt tác hội họa về tứ linh, tứ thời, cá hoá rồng, phước lộc thọ… Cổ miếu Vĩnh Châu còn lưu giữ hầu như nguyên vẹn các bức hoành phi, liễn đối, sơn son thếp vàng, được khắc bằng tiếng Hán cổ như: “Tam đức hồng hộ”, “Thánh đức an bang”, “Phước ánh vạn gia”, “Anh linh vạn cổ”, “Trạch cập vạn phương”, “Đức đại ân hồng”, “Hựu ngã lê dân”… Ngoài ra, Thanh Minh Cổ Miếu còn có nhiều cổ vật quý hiếm khác là bộ lư quỳ cổ, chuông đồng cổ, các bộ bàn thờ (quý tự) làm bằng gỗ quý… được nghệ nhân chạm khắc ba lớp hết sức tinh xảo.
Sau hơn 3 năm trùng tu thì vào tháng 3 năm 2023 đã mở của và đón du khách khắp nơi đến để tham quan chiêm bái cũng như tìm hiểu về lịch sử của Miếu cũng cầu bình an cho gia đình và người thân.
Du lịch Châu Đốc tết hành hương miếu Bà
Cài Đặt Win Và Phần Mềm Máy Tính Online
Danh sách các Website diễn đàn rao vặt
Đã hoàn thành xuất sắc thử thách
Cám ơn bạn đã là một phần của HiGreen! Thank you for being a part of HiGreen
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng, phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long. Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám, mà kiến trúc chủ thể là Văn miếu (chữ Hán: 文廟) - nơi thờ Khổng Tử, và Quốc tử giám (chữ Hán: 國子監) - trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám có tường gạch vồ bao quanh, phía trong chia thành 5 lớp không gian với các kiến trúc khác nhau. Mỗi lớp không gian đó được giới hạn bởi các tường gạch có 3 cửa để thông với nhau (gồm cửa chính giữa và hai cửa phụ hai bên). Từ ngoài vào trong có các cổng lần lượt là: cổng Văn Miếu, Đại Trung, Khuê Văn các, Đại Thành và cổng Thái Học.[1] Với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu – Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến "cầu may" trước mỗi kỳ thi quan trọng.
Văn miếu được xây dựng từ năm 1070, tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tập 1, tr.234 chép: "Mùa thu tháng 10, làm Văn Miếu, đắp tượng, Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đấy học." [2] Như vậy Văn miếu ngoài chức năng thờ các bậc Tiên thánh, Tiên sư của đạo Nho, còn mang chức năng của một trường học Hoàng gia mà học trò đầu tiên là Thái tử Lý Càn Đức, con trai vua Lý Thánh Tông với Nguyên phi Ỷ Lan, lúc đó mới 5 tuổi, đến năm 1072 lên ngôi trở thành vua Lý Nhân Tông.
Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử giám ở bên cạnh Văn miếu, có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý (nên gọi tên là Quốc tử). (Việt sử thông giám cương mục. Nxb. Văn sử địa. 1957) chép: "Bính Thìn, năm Anh Vũ Chiêu Thắng thứ 1 tháng 4... lập nhà Quốc tử giám; tuyển trong các văn thần lấy những người có văn học, bổ vào đó". Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa lại Văn miếu và chỉ thờ Khổng Tử.
Năm 1253, vua Trần Thái Tông đổi Quốc Tử giám thành Quốc Học viện cho mở rộng và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc. Chức năng trường Quốc học ngày càng nổi bật hơn chức năng của một nơi tế lễ "Quý Sửu năm thứ ba (1253)... Tháng 6 lập Quốc Học viện, tô tượng Khổng Tử, Chu công và Á Thánh, vẽ tượng 72 người hiền để thờ... Tháng 9 xuống chiếu cho các nho sĩ trong nước đến Quốc học viện giảng học tứ thư, lục kinh" (ĐVSKTT). Lấy Phạm Ứng Thần giữ chức Thượng thư kiêm chức Đề điệu Quốc Tử viện để trông nom công việc học tập tại Quốc Tử giám".
Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông mất, được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn miếu bên cạnh Khổng Tử.
Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia của những người thi đỗ Tiến sĩ từ khoa thi 1442 trở đi (chủ trương đã đề ra năm 1442 nhưng chưa thực hiện được). Mỗi khoa, một tấm bia đặt trên lưng rùa. Tới năm đó, nhà Lê đã tổ chức được 12 khoa thi cao cấp, Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã tổ chức đều đặn cứ ba năm một lần, đúng 12 khoa thi.
Không phải khoa thi nào tiến hành xong đều được khắc bia ngay, không phải bia đã dựng thì trường tồn, không hư hỏng, không mất mát. Từng thời có những đợt dựng, dựng lại lớn, như năm 1653 (Thịnh Đức năm thứ nhất), năm 1717 (Vĩnh Thịnh năm thứ 13).
Cuối triều Lê, thời Cảnh Hưng, bia vẫn được khắc đều đặn. Dù không còn giữ được đủ bia, nhà công trình điêu khắc giá trị và tư liệu lịch sử quý báu.
Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử giám, cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình. Vào thời Cảnh Hưng, Vũ Miên, Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Lệ cho đúc Bích Ung đại chung (chuông lớn Bích Ung).
Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn miếu Hà Nội. Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cho xây thêm Khuê Văn các bên cạnh giếng vuông. Như vậy vào đầu thời Nguyễn, Văn miếu Thăng Long đã một lần được sửa sang chỉ còn là Văn miếu của trấn Bắc Thành, sau đổi thành Văn Miếu Hà Nội. Còn Quốc Tử giám thì đổi thành học đường của phủ Hoài Đức và sau đó tại khu vực này xây đền Khải Thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử.
Đầu năm 1947, thực dân Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay toàn bộ khu Thái Học được xây dựng với diện tích 1530m2 trên tổng diện tích 6150m2 gồm các công trình kiến trúc chính là Tiền đường, Hậu đường, Tả vu, Hữu vu, nhà chuông, nhà trống được mô phỏng theo kiến trúc truyền thống trên nền đất xưa của Quốc Tử giám.
Quốc Tử giám nằm ở phía Nam thành Thăng Long, xưa thuộc thôn Minh Giám, tổng Hữu Nghiêm, huyện Thọ Xương; thời Pháp thuộc cũng như nay thuộc khu vực trung tâm nội thành của thành phố Hà Nội. Bốn mặt đều là phố, cổng chính là phố Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía Tây là phố Tôn Đức Thắng, phía Đông là phố Văn Miếu. Quần thể kiến trúc này nằm trên diện tích 54331m2 bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám mà kiến trúc chủ thể là Văn Miếu nơi thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám, trường học cao cấp đầu tiên của Việt Nam từ xưa đến bây giờ
Toàn bộ kiến trúc Văn Miếu hiện nay đều là kiến trúc cung đình thời đầu nhà Nguyễn. Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bằng gạch vồ (đây là sản phẩm của nhà Hậu Lê)
Phía nam, trước mặt Văn Miếu là hồ Minh Đường hay Văn hồ, dân gian thường gọi là hồ Giám. Chính quyền thành phố Hà Nội đã cố gắng giải toả, nhưng hiện nay diện tích cũng chỉ còn được 12297 m2, giữa hồ có gò Kim Châu, trên gò dựng Phán Thủy đường (là nơi diễn ra các buổi bình văn thơ của nho sĩ kinh thành xưa). Theo ý đồ kiến trúc, đây vốn là cái "tiểu minh đường" của Văn Miếu, là một bộ phận khăng khít của toàn bộ công trình kiến trúc chung. Năm 1863, trong dịp sửa nhà bia Văn Miếu, Văn Hồ đã được một lần tu sửa. Sự việc này còn ghi lại rõ ràng trên tấm bia đá dựng ở gò giữa hồ: Trước miếu có hồ lớn, trong hồ có gò Kim Châu, vào khoảng niên hiệu Cảnh Trị (1668-1671), Tham tụng họ Phạm (Phạm Công Trứ) làm 10 bài thơ vịnh Phán thủy để ghi lại cảnh đẹp... Mùa thu năm Quý Hợi niên hiệu Tự Đức (1863) tôi [6] cùng Cao đài Đặng Lương Phủ (Đặng Tá) dựng đình bia Tiến sĩ và sửa sang khu hồ... Mùa thu năm Ất Sửu (1865), Đặng sứ quân lại xuất tiền nhà xây một đình trên gò Kim Châu. Đình làm xong gọi là Văn Hồ đình.... .
Ngày 12 tháng 2 năm 1998, trong khi nạo vét cải tạo hồ Văn đã tìm thấy tấm bia Hoàn Văn hồ bi, soạn năm Bảo Đại thứ 17 (1942), do cử nhân khoa Quý Mão Hoàng Huân Trung [7] soạn. Điều đặc biệt là mặt sau của bia khắc bản dịch chữ Hán ra chữ Quốc ngữ do đốc học Trần Trọng Kim và Nguyễn Quang Oánh dịch. Cho biết hồ này và cả dải đất chạy suốt chiều dài mé tây của Văn Miếu đều thuộc quần thể khu vực Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Đến cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 20 do phân cách địa giới hành chính, khu vực Văn miếu thuộc đất tỉnh Hà Đông. Khi đất Văn Miếu – Quốc Tử Giám trao lại cho tỉnh Hà Nội thì bỏ sót lại khu hồ Văn, vì thế năm 1939 các văn thân nho sĩ tỉnh Hà Nội đệ đơn trình Thị trưởng Hà Nội xin Công sứ toàn quyền Bắc Kỳ trả lại hồ Văn vào địa phận Văn Miếu, văn bia có đoạn viết: Hồ này ở ngoài tường cửa thứ ba Văn Miếu tên là hồ Minh Đường hay là Văn hồ. Hồ rộng 1 vạn chín trăm thước vuông tây, trong hồ có gò tròn tên gọi Kim Châu rộng hai trăm thước vuông tây.
Một hồ nước trong, quanh bờ cây cối râm mát, một gò đất nổi giữa hồ trên có một kiến trúc nhỏ đẹp lẩn dưới cành lá xum xuê, cảnh này mở đầu cho một khu kiến trúc sẽ trở thành một tấm gương soi, nhân đôi cảnh trí, tạo cảm giác mát mẻ dịu dàng ngay từ khi mới đặt chân vào khu kiến trúc.[8]
Phía trước Văn Miếu môn là tứ trụ (nghi môn) và hai tấm bia Hạ mã hai bên đó là mốc ranh giới chiều ngang phía trước mặt cổng. Xưa kia dù công hầu hay khanh tướng, dù võng lọng hay ngựa xe hễ đi qua Văn Miếu đều phải xuống đi bộ ít nhất từ tấm bia Hạ mã bên này sang tới tấm bia Hạ mã bên kia mới lại được lên xe lên ngựa. Thế đủ biết Văn Miếu có vị trí tôn nghiêm tới chừng nào. Tứ trụ được xây bằng gạch, hai trụ giữa xây cao hơn trên có hình 2 con nghê chầu vào. Quan niệm tâm linh cho rằng đây là vật linh thiêng có khả năng nhận ra kẻ ác hay người thiện. Hai trụ ngoài đắp nổi 4 con chim phượng xoè cánh chắp đuôi vào nhau. Tứ trụ có đôi câu đối chữ Hán:
Văn Miếu môn tức là cổng tam quan phía ngoài. Cổng có ba cửa, cửa giữa cao to và xây 2 tầng. Tầng trên có ba chữ 文廟門 (Văn miếu môn). Kiểu dáng kiến trúc Văn Miếu môn nhiều nét độc đáo rất đáng lưu ý trong khi nghiên cứu kiến trúc cổ Việt Nam. Nhìn bên ngoài tam quan là 3 kiến trúc riêng biệt. Cửa chính giữa thực chất xây 2 tầng. Mặt bằng hình vuông. Tầng dưới to, tầng trên nhỏ chồng lên giữa tầng dưới. Ngày 18 tháng 3 năm Khải Định thứ 3, vua Khải Định bắc tuần có đến chiêm bái Văn Miếu Hà Nội và làm hai bài thơ tứ tuyệt bằng chữ Hán, rồi phán cho tỉnh thần Hà Đông khắc vào bia dựng trên gác tam quan (rất tiếc bia hiện nay không còn, chỉ còn lại bệ bia, hai mặt bệ là hình hổ phù rất đẹp). Nguyên văn hai bài thơ như sau:
Phía trước cổng tam quan là đôi rồng đá cách điệu thời Lê, bên trong là đôi rồng đá thời Nguyễn. Hai mặt cổng tam quan Phía ngoài có hai câu đối nề (không rõ niên đại)
Từ cổng chính Văn Miếu môn, vào không gian thứ nhất gọi là khu Nhập đạo, theo đường thẳng tới cổng thứ hai là Đại Trung môn. Ngang hàng với Đại Trung môn bên trái có Thành Đức môn, bên phải có Đạt Tài môn. Theo văn bản của ông Đỗ Văn Ninh trước đây hai cổng tả môn và hữu môn ở phía trước và bằng Đại Trung môn, Thánh Đức môn và Đại tài môn ở phía sau. Hiện nay hai bên là không gian cây xanh và thảm cỏ Bức tường ngang nối ba cửa vươn dài ra hai bên tới tận tường vây dọc bên ngoài. Hai bên tả hữu của cả khu Văn Miếu, cùng với tường ngang nơi Văn Miếu môn tạo thành một khu hình gần vuông có tường vây khép kín ra vào bằng Văn Miếu môn. Trong khu vực này trồng cây bóng mát gần kín mặt bằng. Hai chiếc hồ chữ nhật nằm dài sát theo chiều dọc bên ngoài. Cảnh này gây nên cảm giác tĩnh mịch, thanh nhã của nơi "văn vật sở đô". Cửa Đại Trung môn làm kiểu 3 gian, xây trên nền gạch cao, có mái lợp ngói mũi hài, có hai hàng cột hiên trước và sau, ở giữa là hàng cột chống nóc. Gian giữa cổng treo một tấm biển nhỏ đề 3 chữ sơn then Đại Trung môn.
Con đường thẳng từ Văn Miếu môn tới Đại Trung môn lại vươn tiếp thẳng tới Khuê Văn Các. Từ hai cửa Đạt Tài và Thành Đức ở hai bên cửa Đại Trung, hai con đường nhỏ hơn song song chạy thẳng với con đường trục giữa, chia khu vực thứ hai này thành 4 dải khá cân bằng. Hai hồ nước được đào ở vị trí tương tự như hai hồ nước ở khu vực thứ nhất. Việc lặp lại một khu vực chỉ có cây có cỏ, việc làm thêm dãy tường ngăn và làm thêm lớp cửa ra vào, được các nhà kiến trúc cho là rất thành công trong ý đồ tạo nên cảnh thâm nghiêm, tĩnh mịch của khu vực kiến trúc.
Khuê Văn các (nghĩa là "gác vẻ đẹp của sao Khuê") là một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ, cao gần chín thước, do Tổng trấn Nguyễn Văn Thành triều Nguyễn đương thời cho xây dựng vào năm 1805. Gác dựng trên một nền vuông cao cân xứng có lát gạch Bát Tràng mỗi bề có chiều dài là 6,8 mét. Để bước lên được nền vuông này phài đi qua ba bậc thang đá. Kiểu dáng kiến trúc Khuê Văn Các rất hài hòa và độc đáo. Tầng dưới là 4 trụ gạch vuông, mỗi cạnh của trụ có chiều dài một mét và trên các mặt trụ đều có chạm trổ các hoa văn rất tinh vi và sắc sảo. Tầng trên là kiến trúc gỗ sơn son thếp vàng trừ mái lợp và những phần trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc là bằng chất liệu đất nung hoặc vôi cát có độ bền cao.
Sàn gỗ có chừa 2 khoảng trống để bắc thang lên gác. Bốn cạnh sàn có diềm gỗ chạm trổ tinh vi. Bốn góc sàn làm lan can con tiện cũng bằng gỗ. Bốn mặt tường bịt ván gỗ, mỗi mặt đều làm một cửa tròn có những thanh gỗ chống tỏa ra bốn phía. Cửa và những thanh gỗ chống tượng trưng cho sao Khuê và những tia sáng của sao [9]. Mé trên sát mái phía cửa ngoài vào treo một biển sơn son thiếp vàng 3 chữ 奎文閣 (Khuê văn các). Mỗi mặt tường gỗ đều chạm một đôi câu đối chữ Hán thiếp vàng. Cả bốn đôi câu đối này đều rất có ý nghĩa
Gác Khuê Văn vốn là nơi xưa kia dùng để họp bình những bài văn hay của các sĩ tử đã thi trúng khoa thi hội. Gác nhỏ, kiến trúc giản dị nhưng tao nhã, đặc biệt lại được chọn dựng giữa những cây cổ thụ xanh tốt, cạnh giếng Thiên Quang đầy nước trong in bóng gác.
Phân tích. Theo Kinh dịch những con số lẻ (1, 3, 5, 7, 9) thuộc về dương, biểu hiện sự sinh sôi nảy nở và phát triển, Khuê văn các có 8 mái là bát quái, có thêm 1 nóc ở trên là 9, số cửu trù, số cực dương.[10] Theo quan niệm của người xưa, giếng Thiên quang hình vuông tượng trưng cho mặt đất, cửa sổ hình tròn của gác Khuê văn tượng trưng cho bầu trời, có ý nói nơi đây là nơi tập trung mọi tinh hoa của trời đất, có ý tưởng đề cao trung tâm giáo dục văn hoá Nho học Việt Nam.[11] Ngày nay, Khuê Văn Các ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội.
Hai cửa này cùng với gác Khuê Văn đồng thời mở đầu cho khu vực thứ hai, khu vực giếng Thiên Quang và hai vườn bia Tiến sĩ.[1]
Thiên Quang tỉnh (tức "giếng soi ánh sáng bầu trời") còn được gọi là Văn Trì (ao Văn). Thiên Quang nghĩa là ánh sáng bầu trời. Đặt tên này cho giếng, người xây dựng có ý muốn nói con người thu nhận được tinh túy của vũ trụ, soi sáng tri thức, nâng cao phẩm chất, tô đẹp nền nhân văn. Giếng hình vuông, quanh bờ đều xây hàng lang trưng cho đất, cửa tròn gác Khuê Văn tượng trưng cho trời. Tinh hoa của cả trời cả đất đều được tập trung ở trung tâm văn hóa giáo dục uy nghiêm giữa chốn đế đô này. Một con đường nhỏ lát gạch bao quanh giếng cho phép người ta có thể dạo quanh giếng, lên gác Khuê Văn, vào cửa Đại Thành hoặc rẽ sang 2 vườn bia đá ở 2 bên.
Nhưng có lẽ di tích có giá trị bậc nhất ở đây là 82 tấm bia Tiến sĩ dựng ở hai bên phải trái của giếng Thiên Quang, mỗi bên 41 tấm dựng thành 2 hàng ngang, mặt bia đều quay về phía giếng. Cả hai bên, giữa mỗi vườn bia xây một tòa đình vuông, 4 mặt bỏ trống, nền cao, giữa nền có bệ, cửa đều trông thẳng xuống giếng. Đây là hai tòa đình thờ bia. Xưa kia hàng năm xuân thu nhị kỳ trong Văn Miếu làm lễ tế thì ở đây cũng sửa lễ vật cúng bái các vị tiên nho của nước ta mà quý tính cao danh còn khắc trên bia đá. Trong 82 tấm bia còn lại tới ngày nay, tấm sớm nhất dựng vào năm 1484, khắc tên các vị tiến sĩ đỗ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 (1442) tấm cuối cùng dựng vào năm 1780, khắc tên các Tiến sĩ đỗ khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 40 (1779). Từ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 tới khoa cuối cùng là khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống năm thứ nhất 1787 tính cho đủ phải tới 124 khoa thi đình, nếu chỉ kể các khoa thi Tiến sĩ, không kể các khoa Đông Các và Chế khoa thì cũng phải 117 khoa, vậy nếu theo đúng điển lệ triều Hậu Lê thì phải lập đủ 117 tấm bia đề tên Tiến sĩ. Thế nhưng trải qua bao cơn binh lửa, vật đổi sao dời, số bia chỉ còn là 82 tấm. Nhiều tấm bia nọ lắp vào rùa kia, nhiều tấm nứt vỡ phải gắn chắp lại.
Khi quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long đã làm hư hại Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Nông dân trại Văn Chương xin Nguyễn Huệ dựng lại bia đề tên Tiến sĩ trong nhà Giám viết rằng:
Tháng 4 năm 1976 Viện Khảo cổ học phối hợp với phòng Bảo tồn bảo tàng, Sở Văn hóa Thông tin thành phố Hà Nội đã khai quật được một con rùa đá đế bia chìm sâu dưới lòng hồ cạnh Khuê Văn Các. Thân bia chưa thấy, song sự việc này đã nâng số bia Tiến sĩ lên con số 83. Những năm thực dân Pháp xâm lược rồi tạm chiếm Hà Nội, 2 vườn bia có lúc hoang vắng, cỏ cao lút đầu.[13] Hiện nay 2 vườn bia đã được tu sửa lại theo mẫu sửa nhà bia cuối cùng vào niên hiệu Tự Đức năm thứ 16 (1863), do Bố chính Hà Nội là Lê Hữu Thanh cùng với thự Hậu quân Đô thống, Tổng đốc Hà Ninh là Tôn Thất Hân và Án sát Hà Nội là Đặng Tá khởi xướng làm 2 nhà bia mỗi nhà 11 gian để che mưa nắng cho các di vật quý giá này. Nội dung được ghi rõ trong 2 tấm bia dựng ở bên trái sân Đền Khải Thánh - Quốc Tử Giám (xem phần trích trong mục Đền Khải Thánh - Quốc Tử Giám)
Qua cửa Đại Thành là vào không gian thứ ba, khu vực chính của di tích Quốc Tử Giám - Văn Miếu. Cũng như cửa Đại Trung, cửa Đại Thành là một kiến trúc 3 gian với hai hàng cột hiên trước sau và một hàng cột giữa. Chính giữa, trên giáp nóc có treo một bức hoành khắc 3 chữ 大成門 (Đại thành môn) theo chiều ngang, đọc từ phải sang trái. Bên phải hai hàng chữ nhỏ dọc khắc Lý Thánh Tông, Thần Vũ nhị niên, Canh Tuất thu, bát nguyệt phụng kiến có nghĩa là: "Tháng 8 mùa thu năm Canh Tuất, niên hiệu Thần Vũ năm thứ 2 đời Lý Thánh Tông vâng sắc xây dựng" [14]. Bên trái một hàng chữ dọc khắc: Đồng Kháng tam niên, Mậu Tý trọng đông đại tu có nghĩa là "Tháng 11 năm Mậu Tý niên hiệu Đồng Khánh năm thứ 3 đại tu".[15] Bức hoành sơn thiếp giản dị, là sản phẩm của năm 1888, song nó là minh chứng cho một lần tu sửa lớn vào thời Đồng Khánh nhà Nguyễn, và cũng là một bằng cứ gián tiếp cho năm khởi dựng Văn Miếu vào thời vua Lý Thánh Tông.
Cửa Đại Thành (cửa của sự thành đạt lớn lao), mở đầu cho khu vực của những kiến trúc chính, nơi thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ phối, Thất thập nhị hiền v.v... và cũng là nơi giảng dạy của trường giám thời xưa, mang một cái tên đầy ý nghĩa tưởng không còn có thể chọn một tên nào có ý nghĩa hay hơn.
Hai cửa nhỏ theo văn bản của ông Đỗ Văn Ninh là Kim Thành bên phải và Ngọc Thành bên trái, hiện nay là Kim Thanh môn và Ngọc Chấn môn nằm ngang với cửa Đại Thành, song 2 cửa này không mở vào thẳng khu vực chính, mà để đi qua con đường lát gạch phía sau 2 dãy Tả Vu và Hữu Vu để tiếp tục qua sang khu Khải Thánh phía cuối cùng của di tích.
Bước qua cửa Đại Thành là tới một sân rộng mênh mông lát gạch Bát Tràng. Hai bên phải trái của sân là 2 dãy Hữu Vu và Tả Vu. Chính trước mặt là tòa Đại Bái Đường rộng rãi, to lớn và thâm nghiêm trải suốt chiều rộng của sân nối giáp với đầu hồi của Tả Vu, Hữu Vu 2 bên, tạo thành cụm kiến trúc hình chữ U cổ kính và thuyền thống. Sau Đại Bái Đường, song song với Đại Bái Đường là tòa Thượng Điện, có quy mô tương tự cả về chiều cao lẫn bề rộng. Đại Bái Đường nối với Thượng Điện bằng một Tiểu Đình hình vuông. Nếu tách riêng cụm 3 kiến trúc này ra mà nói thì chúng được xây dựng theo hình chữ công mà Tiểu đình chính là nét sổ giữa và Đại Bái Đường, Thượng Điện là 2 nét ngang trên và dưới.
Thượng Điện ở phía sau 9 gian, tường xây 3 phía, phía trước có cửa bức màn đóng kín 5 gian giữa, 4 gian đầu hồi có cửa chấn song cố định. Nhìn chung Thượng Điện kín đáo và do đó cũng tối hơn Đại Bái, đó cũng là ý đồ của công trình sư muốn tạo cho nơi đây một không khí thâm nghiêm, u tịch và họ đã thành công mỹ mãn. Nơi đây là nơi thờ những vị tổ đạo Nho. Gian chính giữa có cái khám và ngai lớn để trên một bệ xây, trong có bài vị Chí thánh tiên sư Khổng Tử. Cách 2 gian 2 bên tới những gian khác cũng có bệ xây và cũng có khám, trong khám có ngai và bài vị. Bên trái có 2 ngai thờ Tăng Tử và Mạnh Tử; bên phải có 2 ngai thờ Nhan Tử và Tử Tư. Bốn vị được thờ trên đây tức là Tứ phối được quy định thờ từ ngày mới xây dựng Văn Miếu. Ngoài bài vị ra cả 4 vị đều có tượng gỗ sơn thiếp rất uy nghi.
Hai gian đầu hồi cũng có 2 khám lớn xếp chầu vào gian giữa, thờ Thập triết gồm những vị: Mẫn Tử, Nhiễm Tử, Đoan Mộc Tử, Trọng Tử, Bốc Tử, Hữu Tử, Tể Tử, Ngôn Tử, Chuyên Tôn Tử, Chu Tử.
Tòa Đại Bái bên ngoài cũng xây 9 gian, nhưng chỉ xây 2 tường hồi còn mặt trước mặt sau để trống. Tòa Đại Bái này có chức năng hành lễ trong những kỳ tế tự xuân thu. Chỉ gian chính giữa có hương án thờ còn các gian khác đều bỏ trống. Tại đây treo khá nhiều hoành phi câu đối. Bức hoành gian giữa khắc 4 chữ Khang Hi ngự thư và Đồng Khánh Mậu Tý trọng đông thuận đề (1888)
Cũng như Thượng Điện, Đại Bái đường mang đậm phong cách kiến trúc thời Hậu Lê, kẻ bảy giản đơn không chạm trổ cầu kỳ, chồng đấu làm theo kiểu đấu đỡ cột chồng rất Việt Nam, khác hẳn với phong cách kiến trúc đồng thời của những công trình ở các nước láng giềng.
Khu Khải Thánh là khu sau cùng của di tích. Từ Văn Miếu sang đến Khải Thánh người ta có thể đi theo 2 con đường lát gạch phía sau Tả Vu và Hữu Vu, hoặc cũng có thể từ sau lưng Thượng Điện qua cửa tam quan. Cửa này là cửa chính cũng xây 3 gian, có mái lợp và cánh cửa đóng mở. Từ bên ngoài vào đền Khải Thánh cũng có thể qua một cổng nhỏ có cánh mở ở góc Đông Nam nơi tiếp giáp với bức tường ngăn 2 khu Văn Miếu và Khải Thánh.
Đền Khải Thánh là nơi thờ cha mẹ Khổng Tử tức là Thúc Lương Hột [zh] và Nhan Trưng Tại [zh]. Phần nửa diện tích của khu này là sân phía trước. Sân bị con đường lát gạch ngăn đôi dẫn từ cửa tam quan lên chính giữa đền thờ. Nửa sân bên trái có 2 tấm bia ghi đại lược như sau: Thăng Long là nơi đô thành cũ; là nhà Thái Học xưa. Hai bên cửa Văn Miếu có dựng bia đề tên Tiến sĩ, bắt đầu từ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo, tới khoa Kỷ Hợi niên hiệu Cảnh Hưng, nay hiện còn 82 tấm, đó chỉ là một số nhỏ. Trong thời gian từ đó tới nay gió táp mưa sa, cỏ lấp rêu phong, có tới hơn 20 tấm chữ khắc bị mòn, lỏng chỏng mỗi nơi mỗi tấm, phần nhiều sứt mẻ không thể đọc được hết. Tôi là Thanh đến làm quan ở đây, vẫn thường muốn làm việc ấy. Mùa thu năm nay, công việc đỡ bận, tôi bàn với quan tổng đốc và quan án sát, bàn cách làm nhà ngói mỗi bên 2 tòa nhà, mỗi tòa 11 gian. Tấm bia nào đổ lỏng chỏng thì đem xếp lại, mặt bia nào bị sứt sở thì đem so sánh mà khắc lại. Cất giữ lấy vết tích xưa vậy... Thật sự 2 tấm bia này cũng là những tư liệu quý.
Kiến trúc đền Khải Thánh sơ sài hơn song cũng có Tả Vu, Hữu Vu 2 bên và đền thờ ở giữa. Đền Khải Thánh xưa vốn là Quốc Tử giám, nơi rèn đúc nhân tài cho nhiều triều đại. Năm 1946 quân Pháp đã bắn đại bác phá hủy sạch không còn lại một kiến trúc nào. Kiến trúc ngày nay là hoàn toàn mới. Toàn bộ mái đều được lợp hai lớp ngói lót, trên là một lớp chì dày 1,5mm rồi đến một lớp ngói lót nữa, và trên cùng là ngói mũi hài. Phần giữa các cột nhà với chân đá tảng cũng đặt một tấm chì dày 1,5mm để chống ẩm từ dưới lên. Nền sân đều được lát gạch bát kích thước 30x30x4cm. Xung quanh nhà đều được bó vỉa bằng đá xanh. Quy mô kiến trúc khu Thái Học mới rất bề thế, trang nghiêm và hài hoà với kiến trúc cảnh quan của khu Văn Miếu phía trước.
Đây là công trình xây dựng hoàn toàn mới do Trung tâm thiết kế tu bổ di tích - Bộ Văn hoá Thông tin thiết kế kỹ thuật, nằm trong công trình trùng tu khu Thái Học khởi công xây dựng ngày 13 tháng 7 năm 1999.
Nhà Tiền đường 9 gian với 40 cột gỗ lim chống mái, đầu hồi xây tường bằng gạch 30x30x7cm mặt ngoài để trần không trát. Gian đầu hồi và gian thứ ba mặt trước, mặt sau đều có cửa bức bàn chấn song con tiện dẫn sang nhà Hậu đường.
Hậu đường là kiến trúc gỗ hai tầng, tầng 1 gồm 9 gian, 2 chái với 72 cột gỗ lim, trong đó 8 cột cái cao 11,5m đường kính 0,56m. Hai đầu hồi xây tường bằng gạch 30x30x7cm mặt ngoài cũng để trần không trát. Phía trước là cửa bức bàn chấn song con tiện, xung quanh là vách đố lụa. Gian đầu hồi mặt sau, gian thứ 3 và gian thứ 7 mặt trước là cửa sổ chấn song con tiện.
Tầng 2 có 5 gian xung quanh là vách đố lụa, mặt trước có 5 cửa và mặt sau có 4 cửa để ra lan can phía trước và sau.
Về mặt di tích, 2 nhà bia Tiến sĩ ở 2 bên giếng Thiên Quang là nơi bảo tồn những di tích quý nhất của cả khu di tích lịch sử này. 82 tấm bia Tiến sĩ hiện còn có giá trị về nhiều mặt. Đây là những tư liệu văn tự bản gốc duy nhất được lưu giữ tại chỗ, liên tục kể từ khi được dựng.
MIẾU BÀ CHÚA XỨ CHÂU ĐỐC - AN GIANG
NÚI CẤM - RỪNG TRÀM TRÀ SƯ - CHỢ TỊNH BIÊN
- 21h00 - Ngã Tư Thủ Đức, Trạm xe Buýt (Công An Quận 9) - (Không chỗ gửi xe)
- 21h30 - Trường ĐH Mỹ Thuật TPHCM (Gần Lăng Ông Bà Chiểu), 05 Phan Đăng Lưu, Phường 3, Quận Bình Thạnh (Có chỗ gửi xe)
- 22h00 - Nhà Văn Hóa Thanh Niên, 04 Phạm Ngọc Thạch, Phường Bến Nghé, Quận 1 (Không chỗ gửi xe)
- 22h30 - Nhà Văn Hóa Quận 5, 105 Trần Hưng Đạo, Phường 6, Quận 5 (Có chỗ gửi xe)
=> XE GIƯỜNG NẰM KHỞI HÀNH TRỄ HƠN 2 TIẾNG
Xe và Hướng Dẫn Viên Công ty Kỷ Nguyên Tourist đón khách tại điểm hẹn. Bắt đầu chuyến hành hương, cầu gia đạo bình an, cầu may mắn. Quý khách ngủ đêm trên xe.
NGÀY 1: VIẾNG CHÙA BÀ - KHÁM PHÁ CHÂU ĐỐC – SÀI GÒN (Ăn sáng, trưa)
Khoảng 04h00: Đến Châu Đốc. Quý khách bắt đầu hành trình tham quan danh thắng ở Châu Đốc
- Viếng Miếu Bà Chúa Xứ nổi tiếng hiển linh tọa lạc ở chân núi Sam, một trong những ngôi miếu lớn và linh thiêng nhất ở Việt Nam.
- Tây An Cổ Tự được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.
- Lăng Thoại Ngọc Hầu - Người có công khai mở đất An Giang.
06h00: Quý khách dùng bữa sáng tại nhà hàng thuộc thành phố Châu Đốc.
- Xe chở Quý khách dừng chân tham quan và mua sắm tại khu chợ cửa khẩu Tịnh Biên, nơi bày bán nhiều mặt hàng nhập khẩu từ Campuchia và Thái Lan với giá cả phải chăng, là trung tâm thương mại, dịch vụ, đầu mối giao thông quan trọng của vùng biên giới Tây Nam giáp với Campuchia. Du khách có thể mua tất cả các mặt hàng, từ hàng tiêu dùng, gia dụng, quần áo, thổ cẩm, phụ kiện, trang sức, đồng hồ… đến những đặc sản của vùng đất Tây Nam Bộ và Campuchia như: mắm cá lóc, mắm cá linh, khô cá tra phồng, khô cá sửu, côn trùng, rắn rết, rượu ngâm…
08h00: Tiếp tục hành trình khám phá vùng đất Thất Sơn An Giang. Trên đường đi đoàn sẽ gặp những đồng lúa “cò bay thẳng cánh” theo mô hình cánh đồng mẫu lớn của An Giang, những cánh đồng Thốt Nốt mang đậm nét đặc trưng của đồng bào Khmer Nam Bộ.
*** Quý khách có 2 lựa chọn tham quan như sau:
Lựa chọn 1: Tham quan Rừng Tràm Trà Sư (chi phí tự túc) , nơi đây vừa được khoác lên mình một diện mạo hoàn toàn mới với “Cầu Tình Yêu Trái Tim”, Bến Tàu Tổ Chim, Cây Cầu Tre Vạn Bước dài nhất Việt Nam có tổng chiều dài trên 10km.Quý khách có thể tự do trải nghiệm di chuyển tham quan bằng “tắc ráng” xuyên rừng Tràm Trà Sư – nơi tái hiện đặc sắc hệ thống rừng ngập nước của ĐBSCL ngày xưa. Một trong những khu vực với hệ thống động thực vật đa dạng, nơi sinh sống của nhiều loài động vật và thực vật, có rất nhiều loài chim, thú, bò sát, cá…đã được ghi vào sách đỏ Việt Nam. Hoặc Qúy Khách có thể di chuyển lên xuồng ba lá được chèo bởi những người con vùng đất Tây Nam Bộ theo những con rạch len lỏi vào bên trong Rừng Tràm để có những bức ảnh tuyệt đẹp giữa thiên nhiên.
Buổi trưa: Sau đó xe chở Quý khách dùng cơm trưa nhà hàng gần Núi Cấm.
Lựa chọn 2: Tham quan KDL Lâm Viên Núi Cấm (chi phí tự túc), Quý khách tự do tham quan chiêm bái tượng phật Di Lạc được xác lập Kỷ luật là "tượng Phật Di Lặc trên đỉnh núi lớn nhất Việt Nam" và “tượng Phật Di Lặc lớn nhất trên đỉnh núi ở châu Á”
- Đoàn khởi hành về TP.HCM, trên đường về xe sẽ ghé vào điểm mua sắm đặc sản địa phương cho đoàn mua sắm như: các loại thủ công mỹ nghệ, Nem Lai Vung, các loại mắm cá …
Dự kiến khoảng 19h00: (xe giường nằm giờ về sau 23h00) Về tới TP.HCM đưa khách về điểm hẹn ban đầu. Kết thúc chương trình tham quan du lịch. Kỷ Nguyên Tourist gửi lời cảm, Chia tay và hẹn gặp lại Quý khách!
Lưu ý: Áp dụng khách lẻ ghép đoàn. Trường hợp không đủ số lượng Kỷ Nguyên Tourist được phép dời sang đợt khởi hành tiếp theo. Chương trình có thể thay đổi, sắp xếp cho phù hợp, nhưng công ty vẫn đảm bảo cho đoàn đi đầy đủ điểm tham quan. Số thứ tự ghế/giường được ghi trên xe có thể thay đổi, nhưng vẫn đảm bảo đúng chỗ theo sơ đồ công ty đã sắp cho quý khách.
GỌI NGAY: 1900 63 64 75 - ĐỂ ĐƯỢC ĐẶT CHỔ TỐT NHẤT
Ngoài ra Chúng Tôi còn nhiều tour khác hấp dẫn
VP 1: 136/4C Nguyễn Tri Phương, Phường 9, Quận 5, TP.HCM
VP 2: 67 Đường Đặng Thúc Liêng (đường số 10 cũ), Phường 4, Quận 8, TP.HCM
ĐT: 028. 38 848 870 - 38 847 675 Fax: 028. 38 520 279
Hotlines: 0913 848 870 - 0933 742 479 - 0919 847 675
Email: [email protected]; [email protected]
Website: www.kynguyentourist.com; www.dulichkynguyen.com
Những đình chùa miếu của người Hoa cũng là nét văn hóa nổi tiếng và một trong số đó là Thanh Minh Cổ Miếu của đồng bào người hoa ở vùng Sóc Trăng với nét kiến trung rất đặc biệt được xây dựng vảo năm 1923 và đã được đại trung tu vào năm 2023 đúng 100 năm vừa mới được khánh thành.