Ngày nay, đối với các nước có nền kinh tế thị trường thì thuật ngữ “thoả ước lao động tập thể” hết sức quen thuộc. Thỏa ước lao động tập thể là văn bản do đại diện của tập thể lao động và người sử dụng lao động thương lượng và ký kết theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và công khai; có nội dung là sự thoả thuận giữa tập thể lao động và người sử dụng lao động về các điều kiện lao động và sử dụng lao động, quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ lao động.

Sự tác động của thỏa ước lao động tập thể đến pháp luật lao động:

Sự tác động của thỏa ước lao động tập thể đến pháp luật lao động biểu hiện ở các góc độ sau:

Thứ nhất, thỏa ước lao động tập thể là cầu nối trung gian giữa quy phạm pháp luật lao động và điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp; là văn bản cụ thể hoá chi tiết các qui định của luật lao động phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế của các bên. Nội dung của thỏa ước thường được xây dựng dưới dạng quy phạm, theo từng điều khoản, thể hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên trong quan hệ lao động như các điều kiện lao động, điều kiện sử dụng lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi,…

Đối với quan hệ lao động trên cơ sở hợp đồng, nhà nước không quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên mà chỉ định ra khung pháp luật, các hành lang pháp lý để trên cơ sở đó các bên tự thương lượng thỏa thuận. Vì vậy, các doanh nghiệp cần ký thỏa ước lao động tập thể để cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ của các bên cho phù hợp với điều kiện của từng doanh nghiệp. Từ đó, tạo nên cộng đồng quyền lợi cũng như trách nhiệm của các bên trong quan hệ lao động.

Thứ hai, Thỏa ước lao động tập thể là nguồn quy phạm đặc biệt bổ sung cho luật lao động. Thỏa ước lao động tập thể được hình thành trên cơ sở sự thương lượng, thỏa thuận giữa tập thể người lao động và người sử dụng lao động, bên cạnh đó thỏa ước lao động tập thể còn có tính quy phạm và được coi là “bộ luật con” của doanh nghiệp. Vì vậy, thỏa thuận được ký kết sẽ là nguồn bổ sung cho các quy định của pháp luật tại đơn vị.

Thỏa ước lao động tập thể là sự kết hợp giữa tính quy phạm và tính thỏa thuận nên nó không chỉ là sự cụ thể hóa các quy định của pháp luật mà còn góp phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật lao động. Trong thỏa ước lao động tập thể, những điều kiện làm việc của người lao động được ấn định theo phương pháp tiến bộ và dân chủ hơn bởi thỏa ước là kết quả của sự thương lượng giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động và nó không còn là sự thỏa hiệp giữa các cá nhân nữa. Có thể nói, thỏa ước lao động tập thể là sắc thái đặc sắc của luật lao động, có ưu điểm là uyển chuyển và dễ dáng thích ứng với thực tại xã hội. Do đó, rất được thịnh hành ở các nước công nghiệp, đặc biệt là các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, và đang ngày càng được các doanh nghiệp trong nước áp dụng rộng rãi.

Yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật lao động

Chủ thể quan hệ pháp luật lao động là các cá nhân- tổ chức có năng lực chủ thể, được phép tham gia vào quan hệ pháp luật. Chủ thể quan hệ pháp luật lao động là các bên tham gia vào quan hệ pháp luật lao động, gồm người lao động và người sử dụng lao động.

Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động. Người lao động bao gồm: công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch.

Theo quy định trên thì không phải bất kỳ công dân nào cũng là người lao động, cũng là chủ thể của quan hệ pháp luật lao động. Muốn trở thành người lao động thì người đó phải thỏa mãn những điều kiện nhất định do pháp luật quy định.

Điều kiện để công dân trở thành người lao động phải có đủ hai yếu tố: Năng lực pháp luật lao động và Năng lực hành vi lao động.

Năng lực pháp luật lao động là khả năng của công dân được pháp luật trao các quyền và nghĩa vụ lao động. Khác Năng lực pháp luật dân sự ở chỗ năng lực pháp luật lao động không xuất hiện ngay khi cá nhân mới sinh ra mà phải đạt đến một độ tuổi nhất định.

Độ tuổi cần thiết để có Năng lực pháp luật lao động ở mỗi nước không giống nhau. Ở nước ta là đủ 15 tuổi.

Năng lực hành vi lao động là khả năng của công dân, bằng chính hành vi của mình, thực hiện các quyền và nghĩa vụ lao động được trao. Năng lực hành vi lao động của công dân được xác định dựa vào hai yếu tố là thể lực và trí lực.

Để có Năng lực hành vi lao động đầy đủ, công dân đó phải trải qua một thời gian phát triển cơ thể và phải có quá trình tích lũy kiến thức, kỹ năng lao động (tức là phải được học tập, rèn luyện…).

? Năng lực pháp luật lao động và năng lực hành vi lao động gắn bó chặt chẽ với nhau, xuất hiện đồng thời ở công dân khi người đó đạt đến một độ tuổi nhất định là đủ 15 tuổi. Nếu có giao kết hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật thì họ sẽ trở thành người lao động tham gia vào quan hệ pháp luật lao động.

Năng lực hành vi lao động không đầy đủ. Là người chưa đủ 15 tuổi, chỉ được tham gia vào quan hệ lao động để làm những công việc theo danh mục do Bộ lao động TB&XH quy định với điều kiện là được sự đồng ý bằng VB của cha mẹ, hoặc người giám hộ của họ. Đối với những ngành nghề công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thì pháp luật quy định độ tuổi của người lao động cao hơn khi họ đạt đủ 18 tuổi.

Ngoài ra, trong những trường hợp nhất định có một số người bị hạn chế năng lực pháp luật lao động. Các trường hợp không được tham gia vào quan hệ pháp luật lao động, không được là chủ thể quan hệ pháp luật bao gồm:

Những công dân bị hạn chế năng lực pháp luật lao động: bị cấm làm một số nghề hay đảm nhận một số chức vụ nhất định;

Người không có năng lực hành vi lao động đầy đủ gồm:

Nếu có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam thì NNN cũng có thể trở thành chủ thể của QHPL lao động với tư cách là người lao động. Tuy nhiên, bên cạnh những điều kiện như công dân VN, pháp luật còn quy định thêm một số điều kiện cho họ chẳng hạn như điều kiện cần phải có kiến thức về nền văn hóa nước sở tại.

Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân, nếu là cá nhân thì ít nhất phải đủ 18 tuổi có thuê mướn, sử dụng và trả công lao động.

Để tham gia vào quan hệ lao động với tư cách là người sử dụng lao động, các cơ quan, tổ chức và cá nhân cũng phải có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi.

Năng lực pháp luật của người sử dụng lao động là khả năng pháp luật quy định cho họ quyền tuyển chọn và sử dụng lao động một cách trực tiếp và cụ thể. Hành vi này thường được thể hiện thông qua hành vi của người đại diện hợp pháp hoặc người được ủy quyền.

Tuy nhiên, điều kiện để cá nhân, tổ chức trở thành người sử dụng lao động là khác nhau với từng loại người sử dụng lao động

Khách thể của QHPL nói chung là cái mà các chủ thể nhằm hướng tới. Trong quan hệ pháp luật lao động người sử dụng lao động luôn hướng tới sức lao động của người lao động và sử dụng sức lao động vào quá trình sản xuất – kinh doanh, dịch vụ; còn người lao động muốn sử dụng sức lao động để có thu nhập ổn định. Do đó sức lao động chính là khách thể của quan hệ pháp luật này.

Xác định đúng khách thể của quan hệ pháp luật lao động có ý nghĩa quan trọng vì nó phản ánh đúng lợi ích, mục đích của chủ thể. Sự quan tâm của các chủ thể tới lợi ích, mục đích đó ở một mức độ nào sẽ là yếu tố quyết định đến sự phát sinh, tồn tại hay chấm dứt quan hệ pháp luật lao động.

Nội dung của quan hệ pháp luật lao động bao gồm các quyền- nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ.

Quyền – nghĩa vụ của mỗi chủ thể luôn gắn liền với nhau, không thể chỉ có quyền mà không có nghĩa vụ và ngược lại. Quyền – nghĩa vụ của các chủ thể cũng có quan hệ với nhau, quyền của chủ thể này là nghĩa vụ của chủ thể kia.

Ngoài ra, các bên còn phải thực hiện, tôn trọng những quyền – nghĩa vụ nhất định mà pháp luật quy định để đảm bảo trật tự, lợi ích xã hội; đảm bảo môi trường lao động và môi trường sống.

Quy phạm pháp luật là điều kiện cần để quan hệ xã hội trở thành quan hệ pháp luật. Quy phạm pháp luật lao động sẽ làm xuất hiện các quan hệ pháp luật lao động khi nó xác định điều kiện chủ thể, quyền – nghĩa vụ của chủ thể… quan hệ pháp luật lao động cũng phát sinh/ thay đổi/chấm dứt khi có những sự kiện pháp lý nhất định.

Căn cứ vào hậu quả pháp lý có thể chia sự kiện pháp lý thành ba loại là sự kiện pháp lý làm phát sinh; thay đổi; chấm dứt quan hệ pháp luật lao động.

Là sự kiện người lao động vào làm việc tại đơn vị sử dụng lao động. Có thể xuất hiện trên cơ sở những hình thức tuyển dụng khác nhau nhưng luôn có sự thể hiện ý chí của các bên trong đó:

Quan hệ pháp luật lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động được xác lập và tiến hành thông qua thương lượng, thỏa thuận theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác quyền và lợi ích hợp pháp của nhau; thực hiện đầy đủ những điều đã cam kết.

Luật lao động không thừa nhận những quan hệ lao động do các bên ép buộc hay lừa dối nhau hoặc bị bên thứ ba tác động đến ý chí của hai bên. Sự kiện người lao động và người sử dụng lao động tiến hành bàn bạc, trao đổi, đi đến thống nhất gọi là sự kiện giao kết hợp đồng. Là sự kiện pháp lý duy nhất làm phát sinh QHPL về sử dụng lao động vì nó thể hiện được sự tự do ý chí của các bên tham gia quan hệ pháp luật lao động.