Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Các điều ước quốc tế song phương

Biên giới Việt Nam-Lào được xác lập và ghi nhận trong 11 điều ước quốc tế song phương: Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa Việt Nam-Lào năm 1977; Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới giữa Việt Nam và Lào năm 1986; Nghị định thư về việc phân giới trên thực địa và cắm mốc quốc giới Việt Nam-Lào năm 1986; Nghị định thư bổ sung Nghị định thư về việc phân giới trên thực địa và cắm mốc quốc giới Việt Nam-Lào năm 1987;

Hiệp định về quy chế biên giới quốc gia giữa Việt Nam và Lào năm 1990; Nghị định thư sửa đổi và bổ sung Hiệp định về quy chế biên giới quốc gia giữa Việt Nam và Lào năm 1997;

Hiệp ước xác định giao điểm đường biên giới giữa Việt Nam, Lào và Trung Quốc năm 2006 ; Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa Việt Nam và Lào về việc sửa đổi điểm khởi đầu đường biên giới quốc gia Việt Nam-Lào năm 2007; Hiệp ước xác định giao điểm đường biên giới giữa Việt Nam, Lào và Campuchia năm 2008;

Nghị định thư về đường biên giới và mốc quốc giới giữa Việt Nam và Lào năm 2016; Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và cửa khẩu biên giới Việt Nam và Lào năm 2016.

Để tạo thuận tiện cho người, hàng hóa, phương tiên lưu thông qua biên giới và bảo đảm việc kiểm soát qua lại biên giới có hiệu quả, Hiệp định quy chế biên giới năm 1990 quy định mở 8 cửa khẩu chính.

Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới và cửa khẩu biên giới trên đất liền giữa nước CHDCND Lào và CHXHCN Việt Nam năm 2016 quy định cụ thể hệ thống cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính và cửa khẩu phụ. Trên toàn tuyến biên giới Việt-Lào có 8 cặp cửa khẩu quốc tế, 18 cặp cửa khẩu chính.

Tại mỗi cửa khẩu (quốc tế và chính) có bố trí các lực lượng chuyên trách: Lực lượng bộ đội biên phòng (đối với Việt Nam), lực lượng công an (đối với Lào); Cơ quan hải quan; Cơ quan kiểm dịch (y tế, động vật, thực vật) mỗi nước.

Quy trình kiểm tra, kiểm soát xuất, nhập cảnh, giám sát hoạt động xuất, nhập qua biên giới được thống nhất và theo thông lệ quốc tế.

Tại cửa khẩu phụ, nơi có đủ các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành và đáp ứng được yêu cầu về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật thì thủ tục kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động xuất, nhập qua biên giới được thực hiện như tại cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính.

Tại cửa khẩu phụ, nơi chưa có đủ các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành và chưa đáp ứng được yêu cầu về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật thì thủ tục kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động xuất, nhập qua biên giới được tiến hành tại trạm kiểm soát biên phòng (Việt Nam) và trạm kiểm soát công an xuất nhập cảnh (Lào).

Tại cửa khẩu phụ, nơi chưa có cơ quan hải quan thì lực lượng biên phòng (Việt Nam) và lực lượng công an xuất nhập cảnh (Lào) thực hiện thủ tục, tiến hành kiểm tra, kiểm soát, giám sát đối với hàng hóa mua bán, trao đổi của cư dân biên giới theo quy định của pháp luật về hải quan của mỗi nước và các quy định khác của các điều ước quốc tế có liên quan mà hai nước là thành viên.

Đối với hàng hóa, vật phẩm, phương tiện không phải của cư dân tỉnh biên giới xuất, nhập qua cửa khẩu phụ khi cần thiết phải được chính quyền địa phương hoặc cơ quan hữu quan của hai bên trao đổi, thống nhất trình cấp có thẩm quyền hai nước xem xét, quyết định.

Hàng hóa, vật phẩm, phương tiện xuất, nhập qua cửa khẩu phụ phải có đầy đủ giấy tờ hợp lệ, thực hiện các nguyên tắc, thủ tục theo quy định của pháp luật về hải quan, các quy định liên quan khác của pháp luật mỗi nước và các điều ước quốc tế có liên quan mà hai nước là thành viên.

Tại các cửa khẩu biên giới, hai nước hợp tác phát triển hệ thống các chợ biên giới, trung tâm thương mại biên giới, khu kinh tế cửa khẩu như Lao Bảo, Na Mèo.

Trước kia, chợ chủ yếu là nơi giao thương, buôn bán của cư dân vùng biên hai nước Việt-Lào.

Ngày nay, giao thông được nâng cấp, mở rộng đã thu hút người dân, du khách từ khắp nơi đến chợ, tạo nên nét đẹp du lịch và phát triển kinh tế – xã hội của vùng biên giới hai dân tộc anh em.